Header Ads

Những điều nên biết về XMP

Từ khi XMP xuất hiện, thời gian ép xung bộ nhớ được giảm dần và không gặp nhiều trục trặc như trước.

Việc ép xung bộ nhớ thường tốn nhiều thời gian và cả kinh nghiệm để thiết lập bộ nhớ trong BIOS và khởi động lại hệ thông. Chỉ cần một sai sót hay trục trặc trong tiến trình trên, các thiết lập cũ cho BIOS sẽ phải khôi phục lại từ đầu. Tuy nhiên, từ năm 2007, khi XMP (Extreme Memory Profile) ra đời, việc này đã trở nên thuận lợi hơn.

Đầu ra/vào của XMP

Đặc tả XMP được lập trình trong SPD (serial present detect). Đây là một vùng bên trong bộ nhớ EEPROM (electrically erasable programmable read-only memory) của bộ nhớ DIMM, gồm các thông số về bộ nhớ thiết bị và các chi tiết cấu hình. Hiểu đơn giản, thông tin SPD mô tả chính xác cách mà hệ thống sử dụng bộ nhớ của máy. Bên cạnh các giá trị XMP, SPD còn chứa các bit thông tin khác về module, như các tham số về chuẩn JEDEC hay loại bộ nhớ được lắp.

Tham số JEDEC là các chỉ số thiết lập cơ bản thấp hơn, với độ trễ cao hơn có thể bắt gặp ngay lần đầu tiên vào BIOS khi bạn lắp đặt hệ thống. Các bo mạch chủ thường sử dụng giá trị mặc định là cấu hình JEDEC cơ bản. Nguyên do vì đây là thiết lập cơ bản, thấp và không chính xác nhưng lại bảo đảm cho hệ thống khởi động được. Ví dụ, bộ RAM Viper 4 DDR4-3400MHz 16GB của Patriot có tốc độ JEDEC ở 2.133MHz và độ trễ 15-15-15-36. So sánh với profile XMP Viper 4 trên bo mạch khi lần đầu tiên khởi động, hệ thống chạy bộ nhớ ở 3.400MHz nhưng độ trễ ở 16-18-18-36 và tăng điện thế từ 1,2V lên 1,35V.

Nếu chọn profile XMP trong BIOS, hệ thống mới tận dụng tốc độ và độ trễ tối ưu nhanh hơn của XMP. Với vài loại bộ nhớ, bạn có thể chọn một trong hai thiết lập XMP. Khi Intel lần đầu tung ra thiết kế hai profile bộ nhớ, profile đầu thường dành cho giới ép xung, được chứng thực qua chương trình Extreme Memory Certification của Intel. Profile thứ hai là thiết lập bộ nhớ nhanh nhất có thể nên có thể không chạy được trên mọi hệ thống.

Những năm gần đây, các nhà sản xuất bộ nhớ sử dụng profile thứ hai như là chọn lựa thấp hơn, nhưng nằm ở mức giữa thiết lập nhanh nhất và thiết lập mặc định JEDEC. Nếu bạn muốn biết các thiết lập này cụ thể hơn, bạn có thể sử dụng tiện ích CPU-Z của CPUID để xem được thông tin profile này.

Tiến trình xác thực

Khi nhà sản xuất xác định tốc độ và độ trễ mới cho sản phẩm, họ sẽ thử nghiệm RAM ấy trên nhiều nền tảng khác nhau để kiểm tra tính tương thích. Nếu không có lỗi, nhà sản xuất gửi mẫu RAM tới nhà sản xuất bo mạch chủ để thử với các thiết lập XMP đề nghị.

Nhà sản xuất bo mạch chủ cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển XMP. Trong quá trình xác nhận XMP, nhà sản xuất sẽ điều chỉnh XMP và trao đổi với nhà sản xuất RAM để giúp XMP hoạt động hiệu quả. Tiến trình xác thực XMP không rất phức tạp. Như MSI phải làm việc với nhiều nhà sản xuất RAM như Kingston, G.Skill, Corsair, ADATA... để xác nhận XMP hoạt động tốt. Ví dụ, MSI muốn tung ra bo mạch chủ nền tảng X299 mới của Intel, cụ thể là bo mạch chủ X299 GAMING PRO CARBON AC, hãng phải xác thực nó có thể tương thích tốt với hơn 200 bộ RAM. Bộ RAM nhanh nhất là Avexir 4GB, chạy ở xung nhịp 3.800MHz và MSI cho biết bo mạch chủ này có thể hỗ trợ đến DDR4 4.266MHz.

Tiến trình xác thực XMP của Gigabyte cũng giống với MSI. Gigabyte tự thử nghiệm RAM. Nhà sản xuất RAM cũng tự thử nghiệm lấy. Khi gặp vấn đề, cả hai bên mới cùng ngồi lại giải quyết. GIGABYTE có các chương trình xác thực với nhiều nhà sản xuất bộ nhớ, nhưng quy trình này nhìn chung khi xác thực đều tốn nhiều thời gian của cả hai bên.

Dù các hãng sản xuất RAM lẫn bo mạch chủ đều đưa ra nhiều bảng dài về tính tương thích sản phẩm nhưng thực tế họ không thể thử nghiệm được hết các trường hợp trên thị trường. Có những cặp RAM có thể tương thích với bo mạch chủ mà chưa qua thử nghiệm, không có gì đảm bảo cho điều này cả.

Nền tảng AMD

Điều chỉnh bộ nhớ trên nền tảng AMD và Intel rất khác nhau. Phần lớn thiết lập XMP được điều chỉnh và xác thực trên nền tảng này thì không thể áp dụng trên nền tảng kia. Điều này không có nghĩa là các nhà sản xuất bo mạch chủ khước từ XMP cho nền tảng AMD. Họ chỉ đơn giản là phải làm thêm nhiều việc hơn mà thôi.

Hiện nay, mọi nhà sản xuất bo mạch hỗ trợ XMP đều sử dụng AMP profile nhưng dùng các tên gọi khác nhau. ASUS gọi là D.O.C.P (Direct Over Clock Profile). MSI gọi là A-XMP. Trong một vài trường hợp, thiết lập XMP trên nền AMD chậm hơn tốc độ thực của bộ nhớ vì dựa trên thử nghiệm của nhà sản xuất bo mạch với bộ RAM đó. Một số trường hợp thiết lập XMP còn không hoạt động được trên AMD.

Nền tảng AMD Ryzen không thực sự tải được profile XMP trực tiếp khi bạn thiết lập một profile XMP trên một chipset AMD. Bo mạch chủ sẽ phải đọc profile XMP của bộ nhớ và áp dụng thiết lập ấy thủ công. Nếu thiếu hỗ trợ ở mức mặc định có thể gây ra vài vấn đề cho dù nhà sản xuất bo mạch có thử nghiệm suôn sẻ đi chăng nữa. Hiện thời, bộ xử lý Ryzen có vẻ như có thể đạt được xung nhịp 3.200MHz và 3.600MHz nhất quán hơn nếu kết hợp đúng phần cứng.

Một số vấn đề về tốc độ XMP của Ryzen có thể khiến nền tảng AM4 khó lòng chạy mượt mà được. Điều này khiến nhà sản xuất bo mạch buộc phải hứa hẹn cập nhật BIOS mới cho nền tảng AM4 để có thể tăng được xung nhịp cao hơn. Đồng thời, profile XMP trên AMD cho kết quả không nhất quán.

Số hiệu phiên bản XMP

Các công cụ phần mềm và đặc tả DIMM thường cho biết phiên bản Intel XMP, (như 1.2, 1.3 hay 2.0). Không có sự khác biệt nào về tốc độ giữa XMP 1.3 và 2.0, cũng như sự khác biệt phiên bản không liên quan tới nền tảng. Kích thước file SPD của DDR4 lớn hơn (512KB) so với các phiên bản DDR trước đó (256KB), nên XMP phải định nghĩa lại địa chỉ SPD. Điều này cũng tạo thêm phiên bản XMP 2.0. Một thay đổi khác của XMP 2.0 là SPD chứa thêm thông tin về module PCB, còn phiên bản 1.3 chỉ gồm thông tin về tốc độ, độ trễ và các thông số điện thế. Tóm lại, bộ nhớ DDR3 hỗ trợ XMP 1.3, còn DDR4 hỗ trợ XMP 2.0.

Còn chỗ ép xung bộ nhớ?

Đối với bộ nhớ tốc độ cao, các nhà sản xuất đã đưa ra những profile XMP rất "gắt" để tối đa hóa tốc độ của bộ nhớ. Vậy nên khoảng không để những người mê ép xung đẩy tốc độ lên cao hơn nữa sẽ không còn nhiềi. Nhưng với những bộ nhớ tốc độ thấp hơn, giới ép xung vẫn còn cơ hội. Patriot đề nghị người dùng sử dụng tốc độ XMP. Ngược lại, các nhà sản xuất bo mạch chủ luôn tìm kiếm thêm một khoảng trống nhỏ nhoi nào đó để gia tăng thêm "sức" cho hệ thống. Mỗi cặp bộ nhớ không có tốc độ và độ trễ cố định, duy nhất. Điều này khiến người dùng có thể tăng thêm hay giảm bớt chút ít tốc độ và độ trễ này

Source http://ictnews.vn/cntt/phan-cung/nhung-dieu-nen-biet-ve-xmp-163237.ict

Không có nhận xét nào

Được tạo bởi Blogger.